Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Công Ty Đa Quốc Gia
Công ty đa quốc gia là gì và những đặc điểm của công ty đa quốc gia bao gồm những gì? Hãy cùng tìm hiểu về những rủi ro của công ty đa quốc gia trong bài viết sau đây.
1. Công ty đa quốc gia là gì?
Công ty đa quốc gia thường viết tắt là MNC ( Multinational Corporation) hoặc MNE ( Multinational Enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Một số MNC lớn thậm chí có nguồn vốn lớn hơn nhiều lần ngân sách của một quốc gia trên thế giới. Các MNC có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế của các quốc gia. Các MNC cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa. Một số người cho rằng một dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu.
Một công ty đa quốc gia là công ty hoạt động và có trụ sở ở nhiều quốc gia khác nhau. Cần phải phân biệt công ty quốc tế ( International COmpany) : Chỉ là tên gọi cung của một công ty nước ngoài tại một quốc gia nào đó.
Theo Multinational Financial Manangement – Alan C.Shapiro đã định nghĩa các MNC như sau:
Các MNC thường bao gồm một công ty mẹ đặt tại nước chủ nhà (host countries) có tối thiểu 5 hoặc 6 chi nhánh ở ngước ngoài. Liên Hiệp Quốc ước tính có ít nhất 35000 công ty trên khắp thế giới có thể được phân loại là công ty đa quốc gia dựa trên định nghĩa này.
Một khái niệm khác thì: Công ty đa quốc gia là doanh nghiệp có tầm hoạt động khắp thế giới đối với thị trường. Hoạt động sản xuất ở nước ngoài cộng với triết lý toàn cầu được hợp nhất vao gồm cả các hoạt động trong nước và ở nước ngoài. Một MNC đích thước thường sử dụng hầu hết các hoạt động kinh doanh quốc tế như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài gián tiếp và trực tiếp.
Theo báo cáo của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương Mại và Phát triển ( UNCTAD) năm 2009, có 889.416 công ty đa quốc gia trên toàn thế giới.
Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện sản xuất:
Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds).
Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác (ví dụ: Adidas).
Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft).
2. Đặc điểm của công ty đa quốc gia
2.1. Phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia
Dù theo đuổi chiến lược thâm nhập nước ngoài hay mở rộng toàn cầu, đặc trưng của một công ty đa quốc gia là quy mô và phạm vi phân bổ tài sản của nó. Sự tồn tại thực sự của các công ty đa quốc gia là dựa vào khả năng dễ di chuyển của một số nhân tố sản xuất nhất định giữa các nước.
Thay vì phải giới hạn việc tìm kiếm các địa điểm xây dựng nhà máy trong nước, một công ty đa quốc gia đặt vấn đề: ở đâu trên thế giới là nơi mà chúng ta nên đặt nhà máy? Tương tự như vậy, bộ phận quản lý marketing tìm kiếm thị trường quốc tế chứ không phải trong nước để thâm nhập và bộ phận quản lý tài chính không giới hạn việc tìm kiếm vốn hoặc cơ hội đầu tư đối với bất kỳ một thị trường tài chính quốc gia nào. Vì vậy nhân tố quan trọng để phân biệt công ty đa quốc gia đó là hoạt động tìm kiếm bên ngoài, thực hiện và hợp tác sản xuất, marketing, R&D và các cơ hội tài trợ trên cơ sở toàn cầu chứ không phải trong nước.
Ví dụ, dự án về chất siêu dẫn của IBM được khởi xướng ở Thụy Sỹ bởi một nhà khoa học Đức và một nhà khoa học Thụy Điển, những người cùng nhận một giải thưởng Nobel vật lý về công trình nghiên cứu dự án này. Một ví dụ khác, vốn được huy động ở Luân Đôn trên thị trường đôla châu Âu, có thể được sử dụng bởi một nhà máy dược phẩm đặt tại Thụy Sỹ để tài trợ việc mua thiết bị của Đức bởi một công ty con ở Braxin. Một con búp bê Barbie có thể được làm ở 10 nước – thiết kế tại California, với những bộ phận và quần áo từ Nhật, Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Indonexia, Hàn Quốc, Ý, Đài Loan, được lắp ráp tại Mexico và được bán trên 144 nước.
Những nhân tố cần thiết đối với việc hợp nhất hoạt động toàn cầu là linh hoạt và tốc độ. Đặc biệt, tốc độ đã trở thành một vũ khí cạnh tranh lợi hại trong cuộc chiến giành giật thị phần quốc tế. Khả năng phát triển, sản xuất và phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ nhanh chóng cho phép các doanh nghiệp chiếm được khách hàng, những người cần sự đáp ứng linh hoạt, nhanh chóng và đổi mới thường xuyên.
2.2. Các công ty đa quốc gia khác nhau có những động lực phát triển khác nhau
Bởi vì các lợi thế về chi phí có thể thực hiện từ việc sản xuất ở nước ngoài hoặc các cơ hội thu nhập có thể có từ nhu cầu của thị trường nước ngoài, tiềm năng phát triển trở nên lớn hơn đối với các công ty quan tâm đến hoạt động kinh doanh quốc tế.
Những đầu tư quốc tế phát triển mạnh mẽ qua thời gian, chúng được thúc đẩy bởi sự tổng hợp của các nhân tố:
Sự dỡ bỏ hoặc giảm bớt những rào cản đối với đầu tư nước ngoài;
Các chi phí vận tải và thông tin giảm mạnh;
Các thị trường vốn quốc tế và nội địa hoạt động tự do hơn, trong đó các công ty có thể huy động những khoản vốn khổng lồ, những rủi ro tiền tệ và các rủi ro khác có thể bảo hiểm được.
Tuy nhiên không phải tất cả các công ty đa quốc gia đều có chung một câu trả lời cho câu hỏi tại sao chúng lại tấn công ra thị trường quốc tế. Trên thực tế chúng tìm kiếm những cơ hội rất khác nhau.
– Tìm kiếm vật liệu thô
Những người tìm kiếm vật liệu thô là những công ty đa quốc gia và những tổ chức kinh doanh quốc tế đầu tiên. Đó là những công ty Anh, Hà Lan và Đông Ấn Độ, Pháp, công ty Bay Trading Hudson và Union Miniere HautKatanga – lúc đầu chúng phát triển dưới sự che chở bảo vệ của các đế chế thực dân Anh, Hà Lan, Pháp và Bỉ. Mục tiêu của chúng là khai thác các vật liệu thô có thể tìm thấy ở nước ngoài. Những bản sao của những công ty này trong thời đại hiện đại là những công ty khai mỏ, dầu lửa đa quốc gia. Họ là những người đầu tiên tiến hành đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài, bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ 20. Vì vậy, những công ty dầu lửa lớn như British Petroleum và Standar Oil, đã đi đến những nơi mà những con khủng long đã chết (những công ty được bảo trợ của những đế chế thực dân), là những công ty đa quốc gia thực sự đầu tiên. Những công ty khai thác kim loại như International Nickel. Anaconda Copper, và Kennecott Copper cũng là những công ty sớm đầu tư ra nước ngoài.
– Tìm kiếm thị trường
Người tìm kiếm thị trường là công ty đa quốc gia hiện đại, nó ra nước ngoài để sản xuất và bán hàng ở thị trường nước ngoài. Ví dụ như IBM, Volks- wagen và Unilever. Tương tự như vậy, các công ty sản xuất những mặt hàng nổi tiếng như Nestlé, Levi Strauss, MacDonald’s, P&G, Coca-Cola đã và đang kinh doanh nước ngoài, nơi mà chúng có được doanh số và thu nhập lớn.
Mặc dù đã có những ví dụ về các công ty đa quốc gia tìm kiếm thị trường nước ngoài (ví dụ, Colt Firearms, Singer, Coca-Cola, Philips, và Imperial Chemicals), nhưng phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thông qua mua lại những tài sản hữu hình như nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc ở nước ngoài. Loại hình đầu tư này cơ bản là dòng chảy một chiều – từ Mỹ tới Tây Âu – cho mãi tới những năm gần đầu thập niên 60 của thế kỷ 19. Sau đó, đầu tư ngược chiều bắt đầu, chủ yếu là các công ty Tây Âu mua lại các công ty của Mỹ. Gần đây, các công ty Nhật đã đầu tư vào Mỹ và Tây Âu, chủ yếu để đối phó với những rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu sang những thị trường này.
– Tối thiểu hóa chi phí
Người tối thiểu hóa chi phí là loại hình doanh nghiệp tương đối mới tham gia kinh doanh quốc tế. Những doanh nghiệp này tìm kiếm và đầu tư vào những quốc gia có chi phí sản xuất thấp (Ví dụ như Hồng Kông, Đài Loan và Ireland) nhằm duy trì khả năng cạnh tranh về chi phí cả ở trong và ngoài nước. Phần lớn các công ty này thuộc ngành công nghiệp điện tử. Ví dụ như các công ty Texas Instruments, Atari và Zenith.
2.3. Các công ty đa quốc gia luôn tận dụng cơ chế chuyển giao nội bộ để thu lợi nhuận nhiều hơn
Từ giác độ quản lý tài chính, một trong những đặc điểm của công ty đa quốc gia khác biệt với tập hợp các công ty quốc gia thường hợp tác khách quan với nhau, đó là khả năng của nó trong việc chuyển tiền và lợi nhuận giữa các chi nhánh hoặc giữa công ty mẹ và chi nhánh thông qua các cơ chế chuyển giao nội bộ. Có được điều đó là do các công ty đa quốc gia hoạt động trong hệ thống tài chính quốc tế chứ không phải hệ thống tài chính của một nước cụ thể. Những cơ chế này bao gồm chuyển giao giá cả về hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi trong nội bộ, các khoản tín dụng liên công ty, thanh toán lợi tức cổ phần, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại các khoản thanh toán liên công ty, phí và các khoản tiền phải trả cho bản quyền.
Các công ty đa quốc gia có sự tự do đáng kể trong việc lựa chọn các kênh tài chính thông qua đó các quỹ và lợi nhuận được phân bổ hoặc di chuyển. Ví dụ các bản quyền và nhãn hiệu thương mại có thể được bán thẳng hoặc chuyển giao để thu các khoản tiền về bản quyền. Tương tự như vậy, công ty đa quốc gia có thể chuyển lợi nhuận và tiền từ đơn vị này sang đơn vị khác thông qua việc điều chỉnh giá cả chuyển giao đối với các giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ liên công ty. Dưới giác độ các dòng đầu tư, vốn có thể được chuyển ra ngoài nước dưới hình thức tín dụng với nhiều lựa chọn khác nhau về lãi suất, đồng tiền sử dụng, và kế hoạch thanh toán. Các công ty đa quốc gia có thể sử dụng những kênh khác nhau này, từng kênh hoặc kết hợp với nhau, để chuyển giao quỹ trên bình diện quốc tế, phụ thuộc vào tình hình cụ thể ở từng quốc gia mà nó đặt chi nhánh. Hơn thế, trong các giới hạn của luật lệ khác nhau của các nước và dưới giác độ quan hệ giữa một chi nhánh nước ngoài với chính phủ chủ nhà của nó thì những dòng tiền này có thể có lợi thế hơn so với những dòng có được trong quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp độc lập.
Xem thêm các tài liệu liên quan trong ngành kinh tế mà có thể sẽ hữu ích cho bạn như:
0 bình luận
Sắp xếp: Mới nhất