Tổng Quan Về Chính Phủ Điện Tử
Trong bài viết sau đây, Tri Thức Cộng Đồng xin chia sẻ đến bạn đọc những nội dung quan trọng liên quan đến chính phủ điện tử, bao gồm: khái niệm chính phủ điện tử, lợi ích của chính phủ điện tử, các mô hình chính phủ điện tử và kinh nghiệm triển khai chính phủ điện tử.
Xem thêm:
+ Tổng hợp các đề tài luận văn thương mại điện tử hay nhất
+ Khái Niệm, Lợi Ích Và Vai Trò Của Chính Phủ Điện Tử Hiện Nay
Mục lục [Hiện]
1. Chính phủ điện tử là gì?
Thông tin và truyền thông đang làm biến đổi sâu sắc đời sống, kinh tế, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Phát triển và ứng dụng CNTT&TT đang là cơ sở hạ tầng cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân, từ cơ sở này cùng với sự điều hành Nhà nước, khái niệm Chính phủ điện tử (CPĐT) đã ra đời.
CPĐT là Chính phủ sử dụng CNTT & TT để tăng cường khả năng truy cập và cung cấp các dịch vụ của Chính phủ tới các công dân, các doanh nghiệp và các nhân viên Chính phủ làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn, cung cấp thông tin tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, các tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý nhà nước. Nói một cách ngắn gọn, CPĐT là chính phủ hiện đại, đổi mới, vì dân, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ tốt hơn trên cơ sở ứng dụng CNTT & TT [22,4].
Theo định nghĩa của ngân hàng thế giới (World Bank) “ CPĐT là việc các cơ quan của chính phủ sử dụng một cách có hệ thống CNTT-TT để thực hiện quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. nhờ đó giao dịch của các cơ quan chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (UN) “ CPĐT được định nghĩa như là việc sử dụng Internet để truyền tải cũng như cung cấp thông tin và dịch vụ của chính phủ tới người dân và doanh nghiệp”[28,1].
Như vậy, trong khi hiện có rất nhiều định nghĩa về CPĐT, có một cách cách hiểu chung phổ biến về CPĐT: CPĐT là việc ứng dụng CNTT-TT, cung cấp dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp 24/24, 7 ngày trong tuần, tạo ra sự liên tục, thông tin được trao đổi một cách công khai minh bạch.
Theo Sally Katzen, phó giám đốc điều hành cơ quan quản lý ngân hàng sách thời Tổng thống Bill Clinton thì “chính phủ điện tử là việc người dân và doanh nghiệp có thể truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ chính phủ 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần. CPĐT chủ yếu dựa vào các cơ quan chính phủ sử dụng Internet và các công nghệ tiên tiến khác để nhận và cung cấp thông tin, dịch vụ dễ dàng hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và rẻ hơn”(Nguồn:http://www. whitehouse.gov/).
Dưới thời Tổng thống G.Bush còn xuất hiện một khái niệm rộng hơn về CPĐT nhau sau: “Bằng việc cung cấp cho các cá nhân khả năng tham gia vào bộ máy hành chính hứa hẹn trao bớt quyền lực từ các nhà lãnh đạo trong chính quyền Washington vào tay công dân Mỹ. Tổng thống G. Bush tin tưởng rằng việc công dân có thể truy cập thông tin và dịch vụ chính dễ dàng hơn chính là bước đầu tiên của CPĐT” (Nguồn: http://www.whitehouse.gov/).
Tổng thống G. Bush tin rằng CPĐT sẽ đem lại khả năng tái thiết bộ máy hành chính quan liêu của liên bang. Đến đây lại có một câu hỏi đặt ra là CPĐT chỉ tập trung vào việc tiếp nhận, phố biển thông tin và cung cấp dịch vụ hay còn bao gồm cả các phương thức điều hành xã hội truyền thống ? Chúng ta thấy rằng hiện nay còn xuất hiện khái niệm “Nền dân chủ điện tử (E-democracy”. Do vậy, để trả lời được câu hỏi trên nhất thiết phải phân biệt sự khác nhau giữa CPĐT và nền dân chủ điện tử.
Rogers WO Okot-Uma, tác giả cuốn “E-democracy: Re-inventing Good Governance” cho rằng “Theo nghĩa rộng , Nền dân chủ điện tử đề cập đến tất cả các phương tiện thông tin bằng điện tử giữa chính phủ và người dân. Theo nghĩa hẹp, nền dân chủ điện tử bao gồm tất cả các phương tiện thông tin điện tử giữa cử tri và những người đắc cử”(http://www.worldbank.org/).
Từ những phân tích nêu trên cho phép tổng hợp và rút ra một cách hiểu chung nhất cho thuật ngữ Chính phủ điện tử như sau:
CPĐT là thuật ngữ chỉ “Sự hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước được ứng dụng một cách có hiệu quả những thành tựu của khoa học, công nghệ thông tin, điện tử để điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự tham gia của nhà nước và cung ứng đầy đủ, khẩn trương, liên tục với chi phí thấp các dịch vụ công cho mọi tổ chức, cá nhân thông qua các phương tiện thông tin điện tử”.
2. Lợi ích của chính phủ điện tử
Trong kỷ nguyên CPĐT, mọi công dân có thể được hưởng các dịch vụ của chính phủ mọi lúc mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục vụ nhiệt tình hơn. CPĐT cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty giờ đây có thể hoàn thành các yêu cầu của chính phủ trên mạng, tìm kiếm các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, thực hiện các giao dịch hoặc nộp thuế ngay trên mạng.
CPĐT là chính phủ đảm bảo được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và đúng lúc cho việc ra quyết định. CPĐT lý tưởng là một chính phủ cung cấp đầy đủ thông tin, đúng thời điểm cho những người quyết định, đó là lợi thế lớn nhất của CNTT. CPĐT sử dụng CNTT để tự động hóa các thủ tục hành chính của chính phủ, áp dụng CNTT vào các quy trình quản lý, hoạt động của chính phủ do vậy tốc độ xử lý các thủ tục hành chính nhanh hơn rất nhiều lần.
CPĐT cho phép công dân có thể truy cập tới các thủ tục hành chính mà thông qua phương tiện điện tử, ví dụ như: Internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác.
CPĐT giúp cho các doanh nghiệp làm việc với chính phủ một cách dễ dàng bởi mọi thủ tục đều được hiểu, hướng dẫn và mỗi bước công việc đều được đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi thông tin kinh tế mà chính phủ có đều được cung cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt động hiệu quả hơn. Đối với công chức, CNTT dùng trong CPĐT là một công cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn, có khả năng đáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng.
Về mặt lợi ích, CPĐT có nhiều ưu điểm và lợi ích hơn so với Chính phủ truyền thống:
Thứ nhất, sự vận hành của chính phủ truyền thống diễn ra thủ công, nhiều thủ tục, tốn nhiều công sức và tài chính cho cả nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân; người dân chỉ có thể liên hệ với Chính phủ 5 ngày/tuần, 8h/ngày tại trụ sở của các CQNN. Với lợi thế của việc ứng dụng CNTT &TT, CPĐT có thể khắc phục được những hạn chế trên của Chính phủ truyền thống. Thông qua CPĐT, người dân có thể thực hiện nhiều dịch vụ hành chính như đăng ký kinh doanh, làm khai sinh, khai tử hay đóng thuế trước bạ 365 ngày/năm, 7 ngày/ tuần, 24 giờ/ngày ở bất kỳ nơi nào [23,15].
Thứ hai, xét về tốc độ xử lý các dịch vụ giữa CPĐT và Chính phủ truyền thống, việc tin học hóa và tự động hoá thủ tục hành chính của CPĐT cho phép giải quyết các dịch vụ nhanh hơn, thuận tiện hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất nhiều. CPĐT làm đơn giản hóa các thủ tục, giảm bớt các khâu rườm rà trong thủ tục và nâng cao hiệu quả của quá trình phê duyệt, chú trọng việc cung cấp các dịch vụ nhanh chóng, hiệu quả.
Thứ ba, với những khách hàng trực tuyến, CPĐT sẽ giúp làm giảm thiểu sự tham gia của các cán bộ chính phủ trong việc cung cấp một cách hiệu quả các dịch vụ công cộng cho người dân. Thông qua việc tham gia rộng rãi của người dân, CPĐT cũng giúp nâng cao tính minh bạch và tin cậy của chính phủ, đồng thời có thể thu thập rộng rãi ý kiến của người dân trong quá trình hoạch định, thực thi và giám sát chính sách của chính phủ.
Thứ tư, CPĐT sẽ khắc phục và đẩy lùi những tiêu cực diễn ra trong hoạt động công vụ đó là cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì trệ, quan liêu …., các “thủ tục bôi trơn”. Với việc cung ứng các dịch vụ công trực tuyến, CPĐT sẽ giải quyết các công việc của người dân, doanh nghiệp theo đúng thủ tục, trình tự, thời gian, chất lượng đã được quy định sẵn theo tiêu chuẩn.
Thứ năm, CPĐT là nền tảng để chuyển từ nền hành chính truyền thống sang nền hành chính phát triển, mà thực chất là chuyển từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ. Trong CPĐT, công dân là khách hàng; quan hệ “xin – cho” phổ biến trong Chính phủ truyền thống được chuyển thành quan hệ “phục vụ, cung ứng dịch vụ” trong CPĐT.
– Đối với Chính phủ.
+ Tăng cường tính hiệu quả và chất lượng dịch vụ của bộ máy nhà nước (hay đồng nghĩa với giảm trì trệ – quan liêu).
+ Giảm “nạn giấy tờ” văn phòng – công sở, tiết kiệm thời gian, hợp lý hóa việc vận hành công việc, cho phép các cơ quan Chính phủ cung cấp các dịch vụ chất lượng cao hơn và giảm ngân sách chi tiêu của chính phủ.
+ Hợp lý hóa việc vận hành công việc, cho phép các cơ quan chính phủ cung cấp các dịch vụ chất lượng cao hơn và giảm ngân sách vận hành bộ máy nhà nước.
+ Tăng cường sự minh bạch, giảm tham nhũng: Do không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, CPĐT tạo ra luồng thông tin thông suốt và minh mạch cũng như khả năng tiếp cận thông tin, dịch vụ một cách dễ dàng, thuận tiện. Những thông tin này liên quan đến hoạt động mua sắm công, kế hoạch đấu thầu, thông qua báo mời thầu, biên bản mở thầu và kết quả đấu thầu. CPĐT góp phần thúc đẩy cạnh tranh trên phương diện số lượng (tham gia) và chất lượng (công khai và công bằng).
+ Giảm chi phí cho chính phủ: giúp hoạt động mua sắm công của chính phủ hiệu quả hơn nhờ giảm chi phí giao dịch từ 10-20% [23, 23]. Thông qua việc tự động hóa các quy trình đấu thầu giúp giảm thiểu chi phí đáng kể cho cả bên mời cao hơn, nhờ vào 3 đặc điểm của CPĐT: minh bạch về giá, kích thích cạnh tranh và đổi mới quy trình. Minh bạch về giá bằng cách công khai kết quả đấu thầu trên mạng đã tránh được tình trạng ký hợp đồng với giá quá cao và giúp điều chỉnh giá hàng hóa, xây lắp hay dịch vụ theo đúng giá thị trường.
3. Các mô hình chính phủ điện tử
Một mô hình CPĐT hiệu quả sẽ bao gồm cách thức giải quyết quan hệ tương tác về thông tin giữa ba chủ thể: chính phủ, công dân và doanh nghiệp.
Trên cơ sở quan hệ giữa các chủ thể trên, ta có thể phân loại CPĐT ra thành 4 loại, tương ứng với 4 dạng dịch vụ Chính phủ bao gồm:
G2C (Government to Citizens): được hiểu như khả năng giao dịch và cung cấp dịch vụ của chính phủ trực tiếp cho người dân, ví dụ : Tổ chức bầu cử của công dân, thăm dò dư luận, quản lý quy hoạch xây dựng đô thị, tư vấn, khiếu nại, giám sát và thanh toán thuế, hóa đơn của các ngành với người thuê bao, dịch vụ thông tin trực tiếp 24×7, phục công cộng, môi trường giáo dục.
G2B (Government to Business): Dịch vụ và quan hệ chính phủ đối với các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, nhà sản xuất như: dịch vụ mua sắm, thanh tra, giám sát doanh nghiệp (về đóng thuế, tuân thủ luật pháp,…); thông tin về quy hoạch sử dụng đất, phát triển đô thị, đấu thầu, xây dựng;cung cấp thông tin dạng văn bản, hướng dẫn sử dụng, quy định, thi hành chính sách nhà nước,… cho các doanh nghiệp. Đây là thành phần quan hệ cơ bản trong mô hình nhà nước là chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế, xã hội thông qua chính sách, cơ chế và luật pháp và doanh nghiệp như là khách thể đại diện cho lực lượng sản xuất trực tiếp của cải vật chất của nền kinh tế.
G2E (Government to Employees): chỉ các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ giữa chính phủ đối với công chức, viên chức bảo hiểm, dịch vụ việc làm, trợ cấp thất nghiệp, chăm sóc sức khỏe, nhà ở…
G2G (Government to Government): được hiểu như khả năng phối hợp, chuyển giao và cung cấp các dịch vụ một cách có hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ máy nhà nước trong việc điều hành và quản ly nhà nước, trong đó chính bản thân bộ máy của chính phủ vừa đóng vai trò là chủ thể và khách thể trong mối quan hệ này.
Toàn bộ hệ thống quan hệ, giao dịch của chính phủ như G2C, G2E, G2B,và G2G phải được đặt trên một hạ tầng vững chắc của hệ thống: độ tin cậy (trust), khả năng đảm bảo tính riêng tư (privacy) và bảo mật – an toàn (security) và cuối cùng tất cả đều dựa trên hạ tầng CNTT & TT với các quy mô khác nhau: mạng máy tính, mạng Intranet, Extranet và Internet. Ngoài 4 mô hình giao dịch chủ yếu trên bảng dưới đây cho thấy những hình thức giao tiếp khác trong CPĐT.
4. Kinh nghiệm triển khai chính phủ điện tử
4.1. Kinh nghiệm triển khai chính phủ điện tử Việt Nam
Trong quá trình triển khai CPĐT đã rút ra 5 kinh nghiệm:
Theo chuyên gia Việt Nam cho rằng đầu tiên là việc triển khai tin học hóa hay cải cách hành chính trước.
Thứ 2 là việc xây dựng Cổng thông tin điện tử (Portal) hay dịch vụ công trước. Nhiều năm qua, mọi người thường chỉ chú trọng xây dựng Cổng thông tin điện tử. Tuy nhiên, như mô hình của Bkav eGov, đầu tiên, chúng ta triển khai trong nội bộ và nhận được sự ủng hộ của chính những người trong cơ quan, lúc đó mới có thể cung cấp các dịch vụ công qua mạng cho người dân tốt được.
Thứ ba, hạ tầng như thế nào là đủ để xây dựng CPĐT. Hầu hết hạ tầng hiện nay của chúng ta đã đủ. Tại một số nơi, do chắp vá nên lúc nào cũng tưởng là thiếu. Nhưng chỉ cần các chuyên gia tư vấn, vận dụng hết khả năng của thiết bị sẵn có thì địa phương đó mới hiểu ra là hạ tầng của họ đáp ứng được. Tuy nhiên, nếu chúng ta phát triển hơn nữa thì sẽ cần phải mua sắm thêm thiết bị.
Thứ tư là làm thế nào để triển khai rộng CPĐT khi có rất nhiều sự khác biệt giữa các đơn vị hành chính trong cùng một địa phương. Một số nơi dù là trung tâm thành phố nhưng lại rất e ngại trong việc thực hiện tin học hóa. Đối với những địa phương này, chọn cách “lấy nông thôn bao vây thành thị”, triển khai ở vùng sâu, vùng xa trước như Sơn Hà (Quảng Ngãi) hay Cao Lộc (Lạng Sơn), Mường Nhé (Điện Biên)… Khi đã có sự thành công ở những nơi khó khăn như vậy thì lập tức, các đơn vị quản lý ở thành phố cũng sẽ thực hiện theo.
Cuối cùng là liên thông nhiều ứng dụng của các nhà cung cấp khác nhau. Về vấn đề này đã đưa ra những chuẩn mở để các nhà cung cấp có thể kết nối với nhau.
4.2. Kinh nghiệm triển khai chính phủ điện tử Singapore
Kinh nghiệm trong việc triển khai và phát triển thành công hạ tầng số và nền kinh tế số ở Singapore có được là thông qua các kế hoạch cụ thể, cẩn thận và các chiến lược dài hạn, ví dụ như kế hoạch tổng thể 10 năm iN 2015 của Tổ chức phát triển truyền thông (IDA) nhằm đến việc xây dựng một quốc gia về truyền thông mà tại đó cuộc sống được làm giàu lên thông qua truyền thông. Chiến lược chính đó là việc xây dựng một hạ tầng truyền thông số thế hệ kế tiếp, được gọi là Mạng băng thông rộng quốc gia thế hệ kế tiếp (NGNBN) để làm cơ sở cho quốc gia trong việc đáp ứng những nhu cầu của các công nghệ số và phát triển một hạ tầng truyền thông thúc đẩy nền kinh tế quốc gia. Việc triển khai đến 92% kế hoạch Mạng băng thông rộng quốc gia thế hệ kế tiếp từ giữa năm 2012 sẽ cung cấp sự truy cập đến tốc độ 1Gbps của mạng băng thông tốc độ cao trên toàn quốc gia và cao hơn nữa tới tất cả các địa chỉ truy cập bao gồm nhà dân, trường học, các cao ốc của chính phủ, doanh nghiệp và các bệnh viện. Để bảo đảm không ai sẽ bị tụt hậu lại phía sau trong công cuộc số hóa này, các chương trình tiếp theo đã được vạch ra cùng với sự hỗ trợ của các sinh viên, hỗ trợ người cao tuổi và giúp cho những người khuyết tật có thể truy cập đến và hưởng được những lợi ích từ CNTT & TT.
Triển khai vào năm 2011, kế hoạch tổng thể về CPĐT eGov2015 xây dựng trên nền tảng của kế hoạch tổng thể iN2015. Tầm nhìn của kế hoạch tổng thể eGov2015 là “Tiến tới trở thành một Chính phủ kết hợp, trong đó đồng khởi tạo và kết nối đến người dân” đã đánh dấu sự thay đổi về tư duy của Chính phủ trong việc áp dụng phương thức kết hợp cho việc cung cấp dịch vụ công. Ba phạm vi của kế hoạch này bao gồm: đồng khởi tạo cho các giá trị to lớn hơn, kết nối người tham gia, và tạo xúc tác cho sự chuyển đổi trong toàn Chính phủ.
Để bổ sung cho kế hoạch tổng thể iN2015 và eGov2015, Bộ Cộng đồng, Văn hóa và Thanh niên (MCCY) đã đưa ra kế hoạch tổng thể giai đoạn 2012- 2016 cùng với tầm nhìn cho một Chính phủ Singapore, nơi mà tất cả mọi người khuyết tật có thể đóng góp được những tài năng của họ, và đồng thời cũng trở thành một thành viên không thể thiếu của xã hội. Đồng xây dựng với Hội đồng quốc gia về dịch vụ xã hội (NCSS) và IDA, kế hoạch hướng đến mục tiêu thúc đẩy các dịch vụ xã hội kết hợp và tích hợp thông qua các Tổ chức tình nguyện phúc lợi xã hội, và giúp các cơ quan nhà nước ứng dụng CNTT & TT để giúp cho họ cung cấp sản phẩm và dịch vụ đến người dân, doanh nghiệp một cách tốt nhất.
Nguồn:Tri Thức Cộng Ðồng
0 bình luận
Sắp xếp: Mới nhất